Chương trình mục tiêu quốc gia: Hành trình thay đổi diện mạo vùng dân tộc thiểu số và miền núi

4 giờ trước |   Lượt xem: 66 |   In bài viết | 

Các em học sinh dân tộc Lự bên ngôi trường thân yêu. Ảnh: báo Nhân dân

Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi (DTTS&MN) giai đoạn 2021-2030, với giai đoạn I từ 2021-2025, là một quyết sách lịch sử, thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước tới vùng "lõi nghèo" của cả nước.

Đây không chỉ là một chương trình đầu tư kinh tế, mà còn là một chiến lược toàn diện nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc và khẳng định vị thế chiến lược của vùng đất chiếm ¾ diện tích tự nhiên Việt Nam.

Thành tựu và những con số biết nói

Thành công của một chương trình quy mô lớn không thể chỉ được cảm nhận mà phải được đo lường bằng những số liệu cụ thể. Giai đoạn 2021-2025 đã chứng kiến một sự chuyển mình mạnh mẽ trên khắp các bản làng vùng cao, được thể hiện qua những kết quả ấn tượng.

Trong 9 nhóm mục tiêu cụ thể mà Quốc hội giao, đã có 6 nhóm cơ bản đạt và vượt kế hoạch, tạo ra một bức tranh phát triển đa sắc màu và đầy sinh khí.

Một trong những thành tựu nổi bật nhất là công tác giảm nghèo và nâng cao thu nhập. Tỷ lệ hộ nghèo vùng DTTS&MN đã giảm trung bình 3,4% mỗi năm, vượt mục tiêu đề ra là trên 3%.

Quan trọng hơn, thu nhập bình quân đầu người của đồng bào DTTS đến cuối năm 2024 đạt 43,4 triệu đồng, tăng gấp 3,1 lần so với năm 2020, và dự kiến sẽ đạt 45,9 triệu đồng vào cuối năm 2025, tức tăng 3,3 lần. Đây không chỉ là sự gia tăng về lượng mà còn là sự thay đổi về chất, cho thấy các mô hình kinh tế đã bắt đầu phát huy hiệu quả, giúp người dân không chỉ thoát nghèo mà còn tiến tới làm giàu.

Đường giao thông trên địa bàn tỉnh Phú Thọ được nâng cấp từ nguồn vốn Chương trình 1719. Ảnh: báo Dân tộc và Phát triển

Nền tảng cho sự phát triển bền vững này chính là cuộc cách mạng về cơ sở hạ tầng. Với tổng vốn đầu tư phát triển từ ngân sách trung ương lên tới gần 50.000 tỷ đồng, diện mạo các xã, thôn đặc biệt khó khăn đã thay đổi ngoạn mục.

Hơn 6.018 công trình giao thông nông thôn đã được xây dựng, cùng với 8.673 km đường được bê tông hóa, đã phá thế độc đạo, mở ra cơ hội giao thương, kết nối các vùng miền.

Ánh sáng điện lưới quốc gia đã đến với nhiều bản làng hơn qua 442 công trình điện, và 809 công trình nước sinh hoạt tập trung đã giải quyết cơn khát bao đời của người dân.

Những ngôi nhà tạm, nhà dột nát dần được thay thế bởi những mái ấm kiên cố, với 42.567 hộ được hỗ trợ về nhà ở và 10.549 hộ được hỗ trợ đất ở.

Song song với hạ tầng cứng, hạ tầng xã hội cũng được đầu tư mạnh mẽ. Hệ thống giáo dục được củng cố với 1.032 trường phổ thông dân tộc nội trú, bán trú được đầu tư cơ sở vật chất, tạo điều kiện học tập tốt hơn cho con em đồng bào. Công tác xóa mù chữ đạt kết quả đáng khích lệ với 95.033 người dân được tham gia các lớp học.

Lĩnh vực y tế được tăng cường, người dân được tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe tốt hơn ngay tại cơ sở.

Các giá trị văn hóa truyền thống được đánh thức và phát huy mạnh mẽ thông qua việc hỗ trợ bảo tồn 48 làng, bản văn hóa truyền thống, 124 lễ hội tiêu biểu và thành lập hàng ngàn đội văn nghệ quần chúng, góp phần biến di sản thành tài sản, gắn kết bảo tồn văn hóa với phát triển du lịch.

Phát triển sản xuất, tạo sinh kế bền vững là trái tim của Chương trình. Hàng trăm mô hình sản xuất theo chuỗi giá trị, các dự án trồng dược liệu quý đã được triển khai.

Điển hình như 403 dự án hỗ trợ sản xuất theo chuỗi giá trị và 2.562 dự án phát triển sản xuất cộng đồng đã thu hút hàng chục ngàn hộ dân tham gia, thay đổi tư duy sản xuất nhỏ lẻ, tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hóa, liên kết với doanh nghiệp và thị trường.

Những con số này không chỉ khô khan, chúng đại diện cho hàng vạn gia đình đã có cuộc sống ổn định hơn, con em được đến trường, và tương lai trở nên tươi sáng hơn.

Đồng bào Mường ở Ba Vì vận dụng các nguồn lực đầu tư từ Chương trình. Ảnh: báo Dân tộc và Phát triển

Vai trò "nhạc trưởng" và sứ mệnh kết nối

Để một chương trình có quy mô lớn, nội dung phức tạp, liên quan đến nhiều bộ, ngành và địa phương như Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS&MN có thể vận hành trơn tru và hiệu quả, vai trò của cơ quan tham mưu, điều phối là vô cùng quan trọng.

Ban Chỉ đạo Trung ương Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS&MN giai đoạn 2021-2030, với cơ quan thường trực là Ủy ban Dân tộc (nay là Bộ Dân tộc và Tôn giáo), đã thực sự đóng vai trò "nhạc trưởng", kết nối và hài hòa các nguồn lực, chính sách để tạo nên một bản giao hưởng phát triển.

Vai trò tham mưu được thể hiện rõ nét qua việc chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành xây dựng và trình ban hành một hệ thống văn bản pháp lý đồ sộ, làm cơ sở cho việc triển khai.

Tính đến nay, đã có 89 văn bản từ cấp Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đến các bộ, ngành được ban hành. Đây là một khối lượng công việc khổng lồ, đòi hỏi sự nghiên cứu sâu sắc, bám sát thực tiễn và phối hợp chặt chẽ.

Đặc biệt, khi đối mặt với những khó khăn, vướng mắc phát sinh từ thực tiễn, đơn vị thường trực đã chủ động tham mưu cho Chính phủ, Quốc hội ban hành các cơ chế đặc thù, mang tính đột phá nhằm đảm bảo hiệu quả của Chương trình, như Nghị quyết số 111/2024/QH15, giúp tháo gỡ các "nút thắt" về phân bổ vốn, lựa chọn dự án sản xuất, đơn giản hóa thủ tục, tăng cường phân cấp cho địa phương; Nghị quyết số 142/2024/QH15 của Quốc hội về điều chỉnh Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030; Quyết định số 920/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ điều chỉnh một số nội dung của Chương trình, đặc biệt tập trung vào giai đoạn I (2021-2025).

Hội nghị toàn quốc đánh giá kết quả thực hiện Chương trình giai đoạn 2021-2025 và đề xuất nội dung Chương trình giai đoạn 2026-2030 do Bộ Dân tộc và Tôn giáo tổ chức ngày 31/3/2025

Bên cạnh đó, vai trò điều phối, kết nối được thực hiện thông qua một cơ chế làm việc khoa học và quyết liệt. Ban Chỉ đạo Trung ương duy trì các cuộc họp định kỳ, tổ chức nhiều đoàn công tác đến tận cơ sở để lắng nghe, đối thoại và trực tiếp chỉ đạo tháo gỡ khó khăn.

Văn phòng điều phối Chương trình tại Bộ Dân tộc và Tôn giáo hoạt động như một trung tâm thông tin, tiếp nhận, tổng hợp các kiến nghị từ địa phương để tham mưu cho Ban Chỉ đạo và các cấp có thẩm quyền.

Mô hình chỉ đạo này được nhân rộng xuống các cấp địa phương, với 100% các tỉnh, thành triển khai Chương trình đều thành lập Ban Chỉ đạo các cấp, đảm bảo sự lãnh đạo, chỉ đạo thông suốt từ trung ương đến cơ sở.

Động lực cho phát triển, nền tảng cho tương lai

Vượt lên trên những con số và cơ chế điều hành, ý nghĩa sâu xa và tác động lan tỏa của Chương trình mới là giá trị cốt lõi và bền vững nhất.

Đây không đơn thuần là một chương trình xóa đói giảm nghèo, mà là một chiến lược đầu tư cho phát triển cân bằng, hài hòa và bền vững của cả quốc gia, khẳng định mạnh mẽ và nhất quán chủ trương của Đảng và Nhà nước: các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển và không để ai bị bỏ lại phía sau.

Thông qua dự án "Nâng bước em tới trường" thuộc Chương trình 1719, học sinh vùng biên giới Kiên Giang được trợ lực trên hành trình học tập. Ảnh: báo Dân tộc và Phát triển

Chương trình đã tạo ra cú hích mạnh mẽ, phá vỡ thế trì trệ, khơi dậy tiềm năng của những vùng đất giàu tài nguyên nhưng còn nhiều gian khó.

Việc đầu tư đồng bộ vào hạ tầng thiết yếu, đặc biệt là giao thông, đã tạo ra sự kết nối liên vùng, mở toang cánh cửa giao thương, thu hút đầu tư và hình thành các hành lang kinh tế mới.

Quan trọng hơn, các chính sách hỗ trợ sản xuất, đào tạo nghề đã thực sự trao "cần câu" và tạo ra một "hệ sinh thái" để người dân vươn lên. Tinh thần tự lực, tự cường được khơi dậy, thay đổi "nếp nghĩ, cách làm", chuyển đổi từ tâm lý trông chờ, ỷ lại sang chủ động sáng tạo, làm chủ kinh tế.

Chương trình không chỉ giải quyết các vấn đề căn cơ, gốc rễ mà còn đặt nền móng cho sự tăng trưởng dài hạn, tạo ra các cực phát triển mới dựa trên thế mạnh của địa phương như nông nghiệp công nghệ cao, dược liệu, du lịch sinh thái và văn hóa, góp phần thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng miền.

Không chỉ vậy, Chương trình còn là minh chứng sống động cho chính sách nhất quán về dân tộc, sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước đối với vùng đồng bào DTTS&MN.

Đầu tư cho vùng DTTS&MN chính là đầu tư cho sự ổn định và trường tồn của đất nước. Khi đời sống vật chất và tinh thần của người dân được nâng cao, kinh tế phát triển, niềm tin của đồng bào các dân tộc đối với Đảng và Nhà nước ngày càng được củng cố son sắt. Đây là nhân tố cốt lõi để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc ngày càng vững mạnh, tạo thành sức mạnh nội sinh to lớn.

Đặc biệt, tại các địa bàn chiến lược, vùng biên giới, việc "an dân" chính là nền tảng để "biên cương" vững chắc. Bằng việc ổn định dân cư, phát triển kinh tế, nâng cao dân trí, Chương trình đã góp phần xây dựng "thế trận lòng dân" vững chãi nơi phên giậu của Tổ quốc, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ quốc gia.

Lựa chọn nội dung phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp bền vững, phát huy tiềm năng, thế mạnh của các vùng miền để sản xuất hàng hóa theo chuỗi giá trị là một trong các nội dung nằm trong Dự án 3 thuộc Chương trình

Thuần Linh